Ba Tôi, Nỗi Nhớ Dịu Êm
Viết về ba tôi, phải tả thế nào đây?
Khi nghĩ đến người, lòng tôi êm mát dịu dàng, tựa như dòng sông êm ả như con kinh Ngã Bảy của miền Tây Nam phần trù phú năm xưa tỏa ra những nhánh sông cho tàu đò chạy qua mọi nơi khắp chốn nối liền các tỉnh lỵ, cho con người miền Nam được sống vui thỏa bên dòng nước với tôm cá dẫy đầy quanh năm suốt tháng.
Ba tôi có nhiều cá tính đặc biệt: Một người cha hiền; một vị thầy nghiêm khắc; một người bạn trung tín, vui vẻ sinh động, phóng khoáng, năng động sôi nổi, nóng nảy bộc trực; một ông bầu show năng động giàu sáng kiến; một giám đốc trường nhạc luôn rộng lượng và hiểu biết những khó khăn bất ngờ xảy đến trong đời sống của các nhân viên.
Chỉ có ba là người duy nhất đã nâng đở, khích lệ, thúc giục, nung đúc tôi cái ý chí can cường để vượt lên trên mọi khổ đau thử thách xảy đến, để đối phó với những hoàn cảnh nghiệt ngã về thân phận của cuộc đời tôi sẽ viết đến trong một chương sách khác.
Thuở ấu thơ, ba luôn nói với tôi là đời sống mình do Chúa ban và hãy dùng tài năng phụng sự Chúa cùng dấn thân phục vụ cuộc đời. Ba tôi rất nghiêm khắc trong việc học nhạc. Trong gia đình bên ngoại, về nghệ thuật thì mẹ tôi nghiêng về quốc nhạc (ngũ cung) với các môn: đàn tì bà, đàn kiềm, lục huyền cầm. Má tôi rất giỏi về đàn tranh, và mẹ tôi đã gặp ba tôi người từ Paris, Pháp quốc trở về Việt nam. Ba tôi rất giỏi về vĩ cầm (violin).
Tôi đã được học về đàn tranh với má trong một thời gian, lại được học về violin với ba vào năm tôi lên bốn tuổi. Tôi thấy các em gái đã học violin mà không có người đàn piano khi hòa tấu trong nhà thờ, tôi liền xin ba cho đổi “món” để đở phải đứng kéo đàn mỏi vai mà cứ phải nghe “è è-rề rề” thật buồn ngủ, thay vào đó tôi ngồi đàn piano nhẹ nhàng và để mọi người đỡ thấy thân hình mập mạp của tôi nhưng tránh “võ dưa thì gặp võ dừa” nặng hơn.
Ba tôi nói dương cầm là vua của các nhạc cụ, đa năng, học môn này đến nơi đến chốn là con phải hứa kiên trì học tập. Lúc đó, vì tôi muốn thoát khỏi học đàn violin, tôi liền cam kết với ba rằng “con học giỏi và sẽ đàn trong ban nhạc nhà thờ cho ba coi.” Nhân đây tôi cũng nói qua ban nhạc của ba tôi tại nhà thờ Ðức Bà vào năm 1950, các nhạc công và ca viên trên 50 người hát lễ mỗi Chúa Nhật, họ tập dượt chuyên cần đầy cực nhọc. Từ ngày thứ Năm đến cuối tuần, họ ăn rồi tập, tập rồi ăn, tập sao cho nhạc lễ được hoàn chỉnh từ ca viên đến nhạc công đệm đàn, nhất là khi các lễ trọng có giám mục chủ lễ thì thời gian tập càng dài lâu hơn. Thế cho nên sự cam kết với ba để tôi đổi sang học piano càng làm tôi “hãi hùng” hơn nhưng khi tôi nhận ra thì đã trễ tràng rồi!
1
Nhắc chuyện này để thấy sự kiên quyết của ba tôi. Ông bắt tôi tập đàn bốn tiếng hồ một ngày, ngoài môn học nhạc lý, học văn hóa phổ thông ở trường, tôi còn phải làm bài tập, phụ việc cơ xưởng cho mẹ tôi. Tôi cố gắng nghe lời ba, đợi đến có dịp sẽ thoát khỏi cực hình học đàn. Cơ hội đã tới. Vào dịp Tết tôi có tiền lì xì bèn chạy đi mua loại pháo đại, trong lúc mọi người trong gia đình lo ăn uống vui vẻ phía sau nhà; tôi lén mở nắp đàn, châm lửa cây pháo đại quăng vào trong cây đàn cho nổ tung để khỏi học đàn piano nữa. Một tiếng “bùm” vang dội, cây đàn bị gảy hết búa bên trong, chỉ còn trơ lại sườn đàn bằng gang sắt. Mọi người nghe tiếng nổ ở phòng khách thì vội vàng chạy đến với đôi mắt kinh ngạc nhìn tôi như hỏi sao tôi dám làm việc “tày trời” như vậy? Tôi chỉ đứng nơi góc nhà nhìn mọi người im lặng. Thời ấy, một đàn piano giá bằng một gia tài nhỏ thế mà tôi dám hành động táo bạo, mọi người trong nhà la mắng, dọa nạt, bỏ đói, mắng nhiếc dọa nạt tôi đủ điều. Tôi chỉ lặng câm chịu đựng.
Khi ba tôi bước vào nhà nghe báo cáo, ông đến nhìn cây đàn, rồi gọi một tiếng lớn:
– Lucie đâu?
Tôi núp trong cửa phòng bên đang lén nhìn phản ứng của ông. Nghe tiếng gọi của ba tôi rón rén bước ra và đáp:
– Dạ, thưa ba.
– Sao con dám làm vậy? Ba hỏi.
Nói xong ba cầm nón ra khỏi nhà. Tôi sợ quá, thà ba la mắng hay đánh đòn, đằng này ba chỉ hét lên vài tiếng rồi xách nón ra đi làm tôi sợ run lên. Kỳ này chắc chết quá! Cả nhà theo dõi màn bi kịch sắp được diễn. Trước khi ba tôi trở về, họ hùa nhau cười cợt cho rằng kỳ này tôi sẽ bị đuổi ra khỏi nhà đi ăn mày… Khoảng trưa hôm sau, một chiếc xe lớn có sáu người thợ đến dọn sạch cây đàn đã do bàn tay phá hoại của tôi, sau đó, họ khuân một dương cầm mới toanh vào nhà.
Ba tôi nói :
– Ðể án treo cho con. Rán mà chuộc tội!
Ông đem một bó đủa 200 cây, bảo chị giúp việc đếm từng cây đủa sau mỗi lần tôi tập hết bài. Mấy ngày sau đó thì chị cũng chán, vì phải ngồi đếm từng cây đủa cho hết 200 cây, chị bèn ăn gian đếm tăng lên gấp đôi, gấp ba cho mau hết. Ba tôi biết nên nói:
– Bài học này có đàn 200 lần cũng phải hai tiếng rưỡi hay ba tiếng. Ðược rồi, con muốn vậy thì lần này 400 cây đủa không ăn gian cây nào. Nhớ chưa?
– Chết con mà ba, con còn phải học bài ở trường nữa. Tôi thưa.
Nói gì thì nói tôi vẫn phải tập cho hết số 400 lần. Nhờ tập đàn nhiều lần nên tôi thuộc bài nhuyễn nhừ. Một nữ giáo sư dương cầm từ Paris về Saigon, nhân chuyến nghỉ hè, bà đã nhận lời luyên cấp tốc một nhạc phẩm bắt buộc của Mozart; một bài nhạc tự chọn năng khiếu để tôi ứng thi tuyển vào viện Quốc gia Âm nhạc. Bên cạnh đó, tôi phải ôn tập về nhạc lý nhạc pháp với một giáo sư khác để thi hai môn bắt buộc này. Tất cả chỉ trong vòng sáu tuần lễ mà thôi. Quả là một thời gian kỷ lục cho tôi!
Ba tôi có trường dạy nhạc tại Thủ đô Saigon tên là Cecilia có trên mười lớp dạy nhạc với 10 đàn dương cầm và 80 đàn vĩ cầm. Ông mua tất cả những đàn violins trong tiệm đàn hay các tiệm cầm đồ mang về treo đó rồi tìm kiếm các em có khiếu học đàn, ông tặng các em học đàn violon, và họ được học miển phí với một tờ cam kết học đàn và phục vụ trong nhà thờ ba năm, sau đó thì các em được tự do ra ngoài đời với kiến thức âm nhạc và tự tin sẵn có để tiếp tục đàn tại nhà thờ hay ngoài đời .
2
Ba tôi hợp tác với các chú bác nghệ sĩ thành lập một đoàn ca kịch diễn về cuộc đời Chúa Giê-su, từ lúc Chúa Giáng sinh đến khi Chúa hi sinh chịu chết. Về phương diện này ông rất năng động. Ba tôi thuê 10 chiếc tàu đò và chạy qua các sông rạch thuộc các tỉnh Miền Tây, qua kinh Vĩnh Tế bờ cao, qua kinh Ngã Bảy, đến Trà Vinh, Trà Cú, Trà Lòng, đến cù lao Giêng, lần tới Năm Căn Cà Mau là quê hương bên nội của tôi để trình diễn trên sông cho đồng bào hai bên bờ đuợc xem ca kịch. Đoàn ca kịch tàu đò của ba tôi neo bến và đến trình diễn tại các chợ hay rạp hát …
Trong những mùa nghỉ hè, ba cũng cho tôi đi theo tập sự trình diễn cũng như để học hỏi kinh nghiệm giữa trường học và trường đời như thế nào.
Tôi nhớ mãi chuyến đi Hà Tiên năm tôi lên mười.
Ðoàn hát của ba tôi được nổi tiếng với vở hát “Cuộc Ðời Chúa Cứu Thế” nên được mời lên bờ diễn hát ngay tiền đình của nhà thờ. Tôi xin ba đóng vai ông Giu-se (Joseph) quì bên Chúa giáng sinh nằm trên máng cỏ. Thời tiết lúc ấy có những ngày mưa gió lạnh lẽo; sau mấy chuyến lênh đênh trên sông nước, tôi bị cảm lạnh nhưng vì ham đóng kịch để được ba khen và mong được thưởng như các chú bác trong đoàn.
Lúc đồng hát bài ca Giáng sinh nghiêm trang, sốt sắng, mọi con mắt đều đổ dồn về sân khấu có hang đá, có thiên thần, và các mục đồng quì lạy, có hai bạn tôi, Thuận trong vai Chúa Hài đồng, và Ánh cô gái đóng vai “Mẹ Maria” đang quì bên Chúa Hài đồng. Thình lình, “Giu-se tôi” đang quì bên “Ánh Maria,” tôi “ách xì” văng nước mũi tùm lum vào “Ánh Maria.” Con Ánh quên mình đang đóng vai Maria, nó nỗi quạu xô tôi té lăn cù, sẵn cây gậy trong tay, tôi “quơ” nó một cây; nó bốc rơm tung vào mặt tôi làm Chúa Hài đồng cũng vùng dậy chạy vào trong vấp té cánh gà nghe cái rầm làm khán giả ngạc nhiên và cười quá đổi. Mặt tôi đỏ rần, “Giu-se tôi” chạy ù vô trong luôn. Cả hội trường ngoài trời cười thôi không dứt. Bổng tôi thấy ba giận và lúng túng la lên: “Ðóng màn! … Ðóng màn!” Người cứu vãn tình thế bấy giờ là linh mục sở tại Hà Tiên đã xin lỗi khán giả và sau đó, ông đã chọc cười khán giả bằng lối kể chuyện rất có duyên làm mọi người tiếp tục cười; trong khi đó bên trong sân khấu, người ta thay đổi cảnh trong đền thờ lúc Chúa đi giảng phúc âm.
3
Ba tôi đối với bạn hữu và cọng tác viên rất rộng lượng về tiền bạc, vì ông nói:
– Chúa cho mình thì mình phải biết chia xẻ và giúp đỡ cho mọi người.
Ở bên cạnh ba tôi, tôi học rất nhiều về sự đối xử, tha thứ khi bị phản bội, nâng đỡ khi họ bị yếm thế, và nhường bước cho bạn nghệ sĩ khi họ muốn “nổi.” Ba tôi linh động thay thế nhân viên khi thấy họ “làm eo làm xách” đòi hỏi về tiền lương và không chịu diễn hát. Đôi khi tôi thấy ba đứng yên lặng suy tư bên bờ sông bập bập điếu thuốc … Ba đã từng dạy bảo tôi: Con học hỏi để biết cuộc đời nghệ thuật không phải chỉ một bước chân là lên tới mây, trong lãnh vực âm nhạc chẳng có ai trải thảm đỏ để con thênh thang bước lên, nó phải được tôi luyện theo năm tháng dài lâu đấy con ạ! “Ngọc bất trác, bất thành khí.” Ba cho con học nhạc để phụng vụ Chúa, nếu mai này con có phải lăn lộn ngoài đời để kiếm sống thì con cũng nên nhường thiên hạ muốn “nổi” muốn đứng trước con. “Hữu xạ tự nhiên hương,” có ai đó biết thì kêu mình, con cũng đừng nhờ đến sự quen biết để tiến thân bèn là hãy dùng tài năng thật sự của con. Được may mắn thì tốt nhưng nếu không thì con cứ tà tà làm việc, cứ “tuần tự nhi tiến” con ạ!
Trong việc dạy học, tôi hợp tác với ba và tôi đã tạo được số tiền đầu tiên lúc 11 tuổi, ông đã nói một câu mà đến nay tôi không quên được:
– Con à ! Ba biết con sẽ còn tiến xa hơn trong việc dạy học, trình diễn nhưng hãy nhớ lúc nào cũng phải nghiên cứu, hi sinh và dùng tài năng của con phục vụ cho Chúa, và người ta có cần mình thì đừng từ chối nhen con! Ba sẽ nhường chiếc đủa điều khiển ban nhạc nhà thờ cho con khi con đủ tự tin chín mùi trong công việc điều khiển dàn nhạc.
Tôi ứa nước mắt vì ba tôi đã cho tôi trách nhiệm trong tương lai, một trách nhiệm khó khăn vất vả nhưng nhiều lý thú và đầy thử thách. Sau này, đứng trên bục điều khiển ban nhạc tại ngôi giáo đường Notre Dame tại Thủ đô Saigon, họ là các chú bác cùng thế hệ với ba, tôi có ánh mắt khuyến khích của ba để giúp tôi tự tin hơn. Ba tôi cũng là người bạn an ủi tôi lúc trình diễn bị trục trặc vào giờ chót. Ba cũng cho tôi ý kiến về cách ăn mặc, chỉ dẫn cách trả lời đối với những bạn trai muốn đưa đẩy tán tĩnh … Ba không ra lệnh, ba không cấm đoán nhưng để tôi nhận xét và ba cho tôi ý kiến để tôi biết những việc ấy có mất thì giờ không. Luôn luôn ba nâng đở tôi, cho đến sau năm 1975 tôi bị giam trong ngục tù Cọng sản, ba đã nói:
– Đó là phước Chúa ban cho con để con có thì giờ nghiền ngẫm sắp đặt mọi công việc sau này sao cho đẹp lòng Chúa. Con đừng buồn lo nữa!
Khi Cộng sản cưỡng chiếm miền Nam cuối tháng 4 năm 1975, trường nhạc của ba tôi bị đóng cửa, mấy ông nhạc sĩ nằm vùng đến tịch thu trường nhạc của ba tôi trên đường Nguyễn Du để làm trụ sở của Mặt Trận Giài Phóng và dân trở cờ 30 tháng 4 xuất hiệnmang băng đỏ trên cánh tay, chúng là những tay chỉ điểm để bọn cán bộ đến lấy hết đàn pianos và violins của ba tôi. Và mỗi tháng có tàu lớn cập bến Bạch Ðằng; họ cũng đã chở đi các loại đàn tốt nổi danh trong các villas của những gia đình đã di tản nhưYamaha, Kawai, Pleyel; về violin thì có Victor, Pleyel v.v… Chúng chuyên chở các loại đàn ấy mang về Hà Nội, Hải Phòng, thậm chí họ cũng đã chở đàn qua Liên sô để trả nợ súng đạn. Ôi đau lòng căm phẩn cho quân ăn cướp có bằng cấp. Tôi nhớ họ đã bắt ba tôi ký tên hiến cho nhà nước tài sản trường học, chỉ để lại cho ông hai cây đàn vĩ cầm lớn nhỏ. Ba chỉ nói gọn:
– Thôi kệ, họ muốn lấy cho họ lấy. Ba sẽ tiếp tục đàn nhà thờ và kiếmđàn cho mấy đứa nhỏ muốn học violin.
Tôi nhớ lại một chuyện, và cho đến nay tôi càng thương ba tôi và tự hỏi tại sao ba có thể làm được chuyện như vậy. Ấy là sau năm 1975, đó là thời kỳ dân miền Nam đều khốn đốn vì bị đổi tiền hai lần, mỗi gia đình chỉ có được 100 đồng tiền Hồ. Gia đình tôi khổ với phần bo bo với bột ăn thay cơm theo hộ khẩu. Mỗi ngày vào buồi sáng, tôi đạp xe trên 10 cây số đi dạy học cho học trò nào muốn học đàn, học nhạc lý hay tôi dạy cho các soeurs trong tu viện để đệm đàn Thánh ca trong nhà thờ. Khi đêm về, tôi đi đàn chui trong những biệt thự cho người Sài gòn hoài vọng một tương lai sáng sủa hay cho những người đang mong chờ tin tức nơi người đã đi vượt biển… Nói sao cho hết sự thương đau tột cùng của dân Sài gòn lúc bấy giờ!
Tôi sống trong đói khát, phải chăm nuôi các con nhỏ còn bé bõng, một ngày làm việc vất vả đôi khi chỉ có ổ bánh mì cốc“loại bánh mì nhỏ nửa bàn tay” nhưng tinh thần tôi mạnh mẽ hoạt động không mệt mỏi trong các nhà thờ, một niềm tin hy vọng tuyệt đối lúc bấy giờ, người dân Sài gòn mỗi người theo tín ngưỡng của riêng mình đều cầu xin, tin vàoThượng Ðế, Trời giúp cho mình và gia đình chống chỏi ứng phó với quỉ đỏ, với loài sâu bọ lên làm người không còn tính người.
Các học trò của tôi có cha là sĩ quan thì bị đi tù, các em bị mất đàn vì cư xá sĩ quan ở trong phi trường, bọn cán bộ Cọng sản tịch thu nhà và gia đình các em bị cưỡng bách đi vùng kinh tế mới khỉ ho cò gáy; có em lén tá túc với bà con tại vùng ngoại ô. Vì yêu thích học đàn, các em tạo đàn dương cầm trên cái bàn gỗ nhỏ rồi kẻ các phím đàn sơn đen trắng nhưng không có dây đàn, các em chỉ dùng ngón tay thực tập gõ đàn tưởng tượng như đang đàn trên piano thật. Các em chia nhau trả học phí cho tôi không bằng tiền mà thay thế bằng những bó củi, nửa chai dầu ăn, nước tương, bột mì v.v… Có những ngày lễ hội như Tết hay Giáng sinh, các em hùn nhau mua bo bo để nấu một nồi hay bột làm bánh canh pha nước lạnh để cùng ăn chung với nhau.
Thời gian ấy, ba thường có mặt trong các sinh hoạt của tôi, đôi khi ba thấy các em không có tiền để trả tôi và biết tôi còn phải lo cho các cháu ngoại, ba đã dúi tiền vào tay các học trò. Tôi rất ngạc nhiên và hỏi, các em mới thú thật là ông cho chúng tiền để trả cho cô giáo. Lúc đó tôi rất giận ba. Tôi nói “chuyện trả tiền học là việc của học trò và con, sao ba chen vô lo chi vậy, ba lớn tuổi, cực nhọc đi kéo đàn cho đám cưới, đám tang, đám này đám nọ, rồi còn nuôi các bạn nhạc sĩ của ba trong nhà đến ở không có hộ khẩu, ba còn phải trả tiền đút lót cho công an khu vực nữa, nó vui thì nó nhận, khi có bố ráp là ba mệt với chúng đấy!” Ông điềm đạm trả lời: “Kệ ba, có Chúa quan phòng lo hết.”
Ba tôi là vậy đó. Biết nói sao cho hết tất cả những tuyệt vời mà ông đã làm cho đời, cho người. Bao nhiêu trang giấy cũng không sao viết hết những năm tháng dài ba đã làm cho tôi. Ba đã tạo nên tên Lê Linh Phương ngày hôm nay. Nếu không có ba là người dẫn dắt, là xương sống chống đở trong cuộc đời tôi, thì hôm nay tôi không là gì trong xã hội.
Xin tạ ơn ba!
Ba tôi đã nằm xuống từ lâu, niềm thương nhớ ba vẫn không nguôi trong tâm hồn tôi nhưng hiện tại tôi có Cha trên trời là Thiên Chúa nhân từ luôn dẫn dắt, bảo vệ mọi con đường tôi đã và đang đi. Tôi nghĩ rằng những người con đã hay đang có sự hi sinh âm thầm nhẫn nại, bao la của cha mình, nếu bây giờ không cảm tạ cha, không kính yêu cha hay tìm cơ hội để vinh danh cha mình, đó là một thiếu sót lớn lao! Khi cha mất đi, hay là khi mình làm cha của những đứa con của mình, ta sẽ thấy đó là điều ân hận nuối tiếc suốt đời mà ta không tìm hay có lại được.
Trích trong truyện “Về Miền Ký Ức” của Linh Phuơng